image banner
TỤC NGỮ CỦA MỘT SỐ DÂN TỘC THIỂU SỐ

        Tìm hiểu về lịch sử, văn hóa địa phương là một trong những nội dung của xây dựng Trường học thân thiện. Trong chương trình Ngữ văn các bậc học phổ thông, có nội dung văn học dân gian. Dự án phát triển Trung học phổ thông giai đoạn II của Bộ Giáo dục Đào tạo có nội dung giáo dục bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số. Chúng tôi xin giới thiệu với các thày giáo cô giáo, các em học sinh một số câu  tục ngữ của một số dân tộc thiểu số của tỉnh Lào Cai, góp phần thực hiện có hiệu quả các nội dung nói trên.

 Tục ngữ dân tộc Mông:

- Muốn vợ khôn phải bảo / Muốn con khôn phải rèn.

- Bạn tốt tráng một quả trứng ăn không hết /Bạn xấu mổ trâu ăn không đủ.

- Đường cong phải nắn mới thẳng / Dao cùn phải mài mới sắc.

- Trâu cậy sừng / Ngựa cậy chân.

- Vũ trụ sinh trời đất / Nghĩa vợ chồng trăm năm.

- Từ tình không từ lý.

- Thịt ôi do thiếu muối / Con hư do thiếu dạy bảo.

- Con hổ vằn tấm da / Đàn ông khôn ngoan ở cái đầu.

- Đàn bà lăng xăng làm không thành mặc /Đàn ông lăng xăng làm không thành ăn.

- Mây vờn thung lũng trời sắp nắng / Mây phủ ngọn núi trời sắp rét.

- Một muôi khi đói hơn một bát khi no.

- Nhìn lên sàn bếp chỉ tháy bồ hóng / Nhìn xuống nền bếp chỉ thấy tro tàn.

- Biết dệt không tốn suốt / Biết nói không tốn lời.

- Trâu nghé không chết, trâu nghé thành trâu mộng.

Chàng mồ côi không chết, sẽ lớn thành chàng trai cường tráng.

- Bố mẹ như trụ trời /Anh em như rừng cây.

- Thất bát chỉ một vụ / Vợ chồng không thuận hết cả một đời.

- Khéo ăn ở vợ con được phúc / Có hiếu với cha mẹ được lộc.

Khéo nhủ khuyên vợ con, xứng là trụ / Hiếu với cha mẹ con có hậu.

   

Tục ngữ dân tộc Dao:

- Trời kêu trước, trời không mưa.

- Có chí mài lưỡi cày thành kim / Có chí mài hòn đá thành tiền.

- Người khôn, người nằm lòng không nằm / Người siêng, người nằm lòng không rỗi.

- Thấy qua, không bằng luyện lại / Luyện qua không bằng làm qua.

- Trẻ con dựa bố mẹ / Già cả nương con cái.

- Cây bé uốn thẳng / Cây cao uốn gẫy.

- Chị ngã có em đắt / Em ngã có chị nâng.

- Một người bắc cầu trăm người qua / Một người viết sách trăm người đọc.

- Trước bắc cầu / Sau noi theo.

- Rễ cây ngắn / Rễ người dài.

- Ba thanh niên bàn luận bằng ông già / Ba ông già bàn luận bằng ông quan.

- Ngựa phục roi / Người phục lý.

- Quả mít vỏ xù xì / Ở trong ăn dịu ngọt.

- Xấu bao nhiêu ở năm ngoái / Tốt bao nhiêu ở năm mới.

- Qua mảng nhớ người chở.

- Tre già để gốc măng non mọc.

- Biết nhẹ như giấy / Không biết nặng như sắt.

- Già một năm, biết thêm lý.

- Người thông minh ngủ, lòng không ngủ.

- Có phúc gặp thày / Vô phúc chẳng gặp thày.

- Trống kêu, ở trong lòng không có gì.

- Học sách ba năm, chưa bằng đi thấy ba ngày.

- Hoa thơm không cần đứng đầu gió / Nhà có gái đẹp không nhiều lời.

Tục ngữ dân tộc Giáy:

- Tháng chạp cày ủ / Gánh thóc gãy đòn.

- Ruộng đơi mạ mới tốt. Mạ đợi ruộng thóc ít.

- Một hạt thóc / Mười hạt mồ hôi.

- Biết ăn thì no / Biết ngủ thì ấm.

- Thêm chén rượu thì dại / Thêm bó mạ được ăn.

- Ra đồng làm quan / Về nhà rỗng miệng.

- Đàn ông không biết cầy bừa là đần /Đàn bà không biết khâu vá: người tồi.

- Đánh cờ đánh bạc / Bán cả ruộng lúa vàng.

Bán cả ván nằm nghỉ / Bán cả máng hứng nước.

- Đói ăn măng ăn rau / Đừng có đi ăn cắp.

  Đói ăn khoai ăn nâu / Đừng có đi ăn trộm.

- Đừng lấy chồng đẹp mà nhác / Chớ lấy vợ xinh mà lười.

- Mù quá hóa mưa / Lười quá hóa ngu.

    - Ống quần chùm mắt cá / Bữa tối bữa sáng chung nhau.

- Lấy lý làm sức / Đừng cậy sức khỏe.

- Ngựa sợ roi / Người sợ lý.

- Vàng tốt không sợ lửa.

- Người già nói ấm tim ấm bụng.

    - Ấm không quên bếp lửa / Có không quên mẹ cha.

- Ba mươi mới học thêu / Mặt nhăn mới học chữ

  Bấy giờ muộn mùa nương mùa mạ / Hai ta muộn mùa ăn mùa mặc.

- Con còn nhỏ không dạy / Lớn lên thành ma quái.

- Chồng căng vợ chùng.

- Vợ chồng không tự nên / Bạc vàng không tự đến.

- Lấy tai làm mắt / Gọi quạ là gà.

- Có phên che ruộng / Không có phên che mồm.

- Miệng ngậm vàng ngậm bạc / Gặp người không biết chào cũng ngu.

- Chó ngu sủa mặt trăng / Người ngu hát ngày mùa.

- Người có thóc nói hăng / Người có bạc nói dẻo.

- Cây mục sợ gió to / Kẻ gian sợ người ngay.

- Một con cá ươn / Thối cả gió.

- Người rỗi / Lòng không rỗi.

- Cây tựa cây thành rừng.

- Ăn cơm nhớ ruộng / Ăn cá nhớ sông.

- Của làm ra ăn ngon / Của trộm cắp ăn đắng.

- Giấy không bọc được lửa.

- Càng học cáng biết / Càng biết càng giỏi.

Tục ngữ dân tộc Tày.

 - Mồm ăn núi đá lở / Tay dừng mồm mốc.

 - Có lúa không biết ăn cũng đói / Có mồm không biết nói cũng ngu.

 - Hạt cơm chín hạt mồ hôi.

 - Người chăm việc không nghèo / Người biết nói không thua.

 - Bữa trước ăn mâm đầy cắm được rìu / Bữa sau ăn cơm chan nước lã.

 - Mồm ba hoa, mổ gà không xong.

 - Nghe phải nghe cho rõ / Nói phải nói cho thật.

 - Thương con tập cho con ăn đắng ăn khổ / Hại con cho ăn mật ăn đường.

 - Chớ thở nhờ mũi người.

 - Mồm ếch tự giết ếch.

 - Ngồi trong mẹt không nhấc nổi mẹt.

 - Ngựa không cưỡi thành dê / Trâu không vực thành nai.

 - Vợ chồng cùng nhau lo / Làm việc gì cũng thành.

   Vợ chồng thi nhau nói / Nồi cơm sủi nước không.

 - Mua ăn không bao giờ đủ / Xin ăn không bao giờ no.

 - Con người bụng gian / Ma không tha, trời cũng đánh.

 - Đói thì đói, không được ăn thóc giống.

 - Lo bụng hẹp, không lo nhà hẹp.

Tục ngữ dân tộc Bố Y.

  - Xây dựng gia đình mới biết gạo muối đắt.

  - Nói người khác chắc gì mình đã hơn.

  - Ai biết được sông dài hay suối dài.

  - Tháng Giêng đầu năm làm điều thiện / Cả năm điều tốt đến đầy nhà.

    Tháng giêng đầu năm làm điều ác / Cả năm điều ác ắt chẳng tha.

  - Tháng tư gieo trồng tháng mười thu hoạch

    Tháng tư lười biếng tháng mười chẳng thu.

   - Con trâu là cầu ngô lúa / Con ngựa là vựa sắn khoai.

   - Trên tay bưng bát cơm thơm / Nhớ người chăm bón sớm hôm trên đồng.

   - Gốc cây mục, thân cây tàn / Con hư từ bé, lớn không thành người.

   - Rừng rậm nhiều gỗ / Lòng rộng nhiều khách.

   - Chăm hoa hoa nở / Chăm con con ngoan

     Bỏ hoa hoa héo / Bỏ con con hư.

   - Lửa đỏ ấm nhà, than đen lạnh bếp.

      Người có nết người ngoan / Người mất nết người hư.

 

       Tục ngữ của các dân tộc đều có những nội dung sâu sắc, thâm thúy,

 được diễn đạt một cách độc đáo và sinh động. Ta cũng bắt gặp một số câu tục ngữ có nội dung từa tựa nhau. Có hiện tượng đó là do sự tương đồng về điều kiện tự nhiên và đời sống xã hội nên có sự gặp nhau trong việc  chiêm nghiệm và đúc kết sản phẩm trí tuệ, như người ta thường nói “ ý lớn gặp nhau”. Mặt khác, các dân tộc sống xen kẽ, gần gũi với nhau, có sự giao lưu, ảnh hưởng qua lại trong đời sống tinh thần.

      Một số câu tục ngữ được chọn lựa và giới thiệu nói trên có thể giúp các thày cô hướng dẫn học sinh bổ sung tư liệu cho bài học, tổ chức sinh hoạt ngoại khóa, từ đó có thể sưu tầm thêm các tư liệu khác ở địa phương. Những tục ngữ nói trên cũng có thể giúp các em học sinh suy ngẫm, lựa chọn bổ sung làm phong phú thêm những bài học trong cuộc sống của mỗi người.

 ==============

Ghi chú: Những câu tục ngữ trên được trích từ:

- Một số tục ngữ, câu đố HMông Lào Cai – NGƯT Lý Seo Chúng sưu tầm và dịch. Sở Văn hóa - Thông tin – Thể thao Lào Cai – 1999.

- Tục ngữ, câu đố dân tộc Dao – Trần Hữu Sơn – NXB Văn hóa dân tộc 1999.

- Tục ngữ Giáy – Lò Ngân Sủn và Sần Cháng sưu tầm tuyển dịch – NXB Văn hóa dân tộc 1994.

- Tục ngữ dân tộc Tày vùng Nghĩa Đô – Tư liệu sưu tầm của Nghệ nhân – nhà giáo Ma Thanh Sợi.

- Văn hóa dân gian người Bố Y ở Lào Cai. Trần Hữu Sơn chủ biên. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 2015.     
Tin khác
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập
Footer chưa được cập nhật nội dung hoặc chưa được duyệt!